Đau eo có phải là dấu hiệu bị bệnh thận không? Các nguyên nhân thường gặp gây ra đau eo là gì?
Xem thêm:
Đau vùng eo
Thận nằm ở vùng eo, nên khi cảm thấy đau hoặc khó chịu ở vùng eo, người ta thường cho rằng bị bệnh thận. Kì thực kết cấu của vùng eo tương đối phức tạp, vì vậy có nhiều nguyên nhân gây ra đau eo. Những nguyên nhân thương gặp gây ra đau eo có thể phân thành hai loại lớn:
1. Bệnh thận: do thận đặc và không có thần kinh cảm giác đau, nhưng màng bao thận lại có rất nhiều thần kinh cảm giác đau, bởi vậy chỉ khi màng bao thận bị kích thích thì mới thấy đau, có thể phân biệt tính chất đau của trường hợp này như sau:
a) Thận sưng chướng: do bệnh biến ở thận làm thận sưng, dẫn đến co kéo màng bao thận hoặc bệnh biến xâm phạm một bộ phận thẫn kinh gây ra đau tức hoặc đau đơn thuần, thường cảm thấy nặng ỏ bên trong kéo dài, thường thấy đau nặng lên khi đứng hoặc khi lao động mệt mỏi, không kèm theo buồn nôn, nôn mủa. Thường gặp ở viêm thận cấp, sưng nang thận, viêm bể thận, bệnh thận do tắc nghẽn, chứng tổng hợp bệnh thận, tắc tĩnh mạch thận, u tế bào thận v.v…
b) Chứng viêm xung quanh thận: thiếu máu cấp tính, chứng viêm hóa mủ hoặc bị thương ở phần thận đặc hoặc xung quanh thận, gây ra đau kịch liệt. Thường đau liên tục nhưng không giông như đau thắt thận, khi đó thấy đau eo nặng lên, bởi vậy người bệnh thường thích nằm yên. Khi kiểm tra sự C.0 thắt của các nhóm cơ chỗ bị bệnh, khi ấn thấy đau một cách rõ rệt. Thường gặp ở chứng viêm tể chức xung quanh thận hoặc sưng mủ, vỡ rách sưng nang thận, chảy máu hoặc hoại tử, u ở thận, thận tắc nghẽn (tắc động mạch, động mạch xơ cứng, viêm động mạch, tắc tĩnh mạch thận) và bị thương ở vùng thận V. V…
c) Đau thắt do tắc nghẽn: phần lớn là đau thắt đột phát có giãn cách hoặc đau liên tục nhưng đau thắt từng cơn. Vị trí đau thắt thường liên quan đến vị trí tắc nghẽn của đường dẫn tiểu, như tắc nghẽn ở chỗ nối tiếp với ống dẫn nước tiểu ở bể thận, hoặc trên ống dẫn nước tiểu, thì đau co thắt xuất hiện ỏ vùng ngang sườn, bụng, có thể lan tỏa tổi vùng bụng, vùng eo hoặc bụng dưới, thậm chí lan tói bộ phận sinh dục ngoài và mép trong đùi. Nếu tắc nghẽn ơ 1/3 phía dưới ông dẫn tiểu thì đau thắt thường xuất hiện ổ phía trước bụng, ở bẹn, tinh hoàn hoặc âm hộ, cũng có thể thấy đau ỏ sườn bụng. Thời gian phát tác dài hay ngắn không giống nhau, khi đau kịch liệt ngươi bệnh thường nằm ngồi không yên, kèm theo nôn mửa, toát mồ hôi như tắm, bàn tay bản chân lạnh ngắt thậm chí huyết áp tụt thấp, Sau khi phát tác, cơn đau đột phát ngừng lại, thường có hiện tượng đi tiểu nhiều lần, đi tiểu ra máu, nếu không có viêm nhiễm thì không kèm theo sợ lạnh, sốt. Nguyên nhân thường gặp là sỏi hoặc máu cục hoặc lao thận, u thận, khi đầu vú thận bị hoại tử, các mảnh hoại tử bị tắc nghẽn ở trong bể thận, cửa ra của bê thận hoặc ong dẫn nước tiểu, dẫn đến bể thận, ống dẫn tiểu co bóp kịch liệt, Cũng thấy ở trường hợp sa thận hoặc thận dịch sai vị trí, do vị trí thận biến động làm cuông mạch máu thận, ống dẫn tiểu bị vặn xoắn, gây ra cản trỏ tuần hoàn máu cấp tính hoặc bể thận bị tích dịch, Khi động tĩnh mạch thận và các phân nhánh chủ yếu của nó bị tắc nghẽn, có thể gây ra đau kịch liệt tựa như đau thắt, nhưng cơn đau diễn ra liên tục. Với bệnh nhân bị chứng trào ngược từ ống dẫn tiểu về bàng quang, khi họ đi tiểu, cũng có thể thỉnh thoảng thấy đau thắt ngắn thoáng qua.
2. Bệnh ở ngoài thận: bệnh ở cơ eo, đốt sống, bệnh viêm tuyến tụy, chứng tăng sinh tổ chức sợi ỏ vách sau bụng hoặc u bướu, u động mạch'chủ ở bụng V. V… cũng có thể gây ra đau eo, nhưng có những chứng trạng bệnh tương ứng.